PDA

View Full Version : Cimbalom (Những nhạc cụ lạ - bài 5)


truongthangco
15-06-2012, 02:46 PM
http://www.youtube.com/watch?v=hKbJLD794zk&feature=player_embedded

Cimbalom là loại đàn hammered dulcimer dàn nhạc: một loại đàn dây gồm có một cái hộp hình thang lớn với những dây đàn bằng kim loại. Nó là loại đàn phổ biến khắp các nước Đông Âu. Cimbalom cao khoảng 91cm, nặng từ 68kg đến 90kg. Nó có những dây treble xếp thành 4 nhóm và được chỉnh cùng một unison (đồng âm – những nốt cùng một cao độ hoặc cùng nốt trong những quãng tám khác khau). Những dây bass quấn ngoài bằng đồng đỏ xếp thành những nhóm 3 và cũng được chỉnh cùng một unison. Tùy theo loại, cimbalom có thể lên tới 125 dây đàn chạy ngang mặt trên của hộp cộng hưởng (hộp gắn vào 4 chân trụ có thể tháo rời). Cimbalom có âm sắc pha trộn giữa đàn piano và harp. Nó có âm vực rộng từ 4,5 đến 5 quãng tám. Người chơi tạo ra giai điệu bằng cách gõ vào dây đàn bằng dùi gỗ hay kim loại (hai loại này đều dài khoảng 20,32cm). Nếu được chơi bằng hai que gỗ cong có đầu bọc cotton, len hay da thuộc, cimbalom sẽ phát ra những nốt có âm sắc từ sáng chói cho tới rất mềm, còn khi gõ bằng dùi đầu trần thì tạo ra âm giống như đàn banjo. Hai thanh giảm âm và bàn đạp chân của cimbalom giúp kiểm soát độ rung của âm thanh.

242
Diatonic hammered dulcimer

243
Chromatic hammered dulcimer

http://www.youtube.com/watch?v=4gaR8IrckcU&feature=related

Lịch sử tóm tắt
Cimbalom là nhạc cụ của người Gypsy ở Hungari, có thể tìm thấy vết tích trong lịch sử phương Đông và Trung Đông. Vào thời xa xưa, có một loại đàn ở bán đảo A Rập gọi là"kannun" (hay qanun). Loại đàn này có hộp cộng hưởng âm thanh với những dây đàn kim loại hoặc ruột thú bắt ngang qua trên một hoặc hai ngựa đàn. Nó được chơi bằng cách sử dụng một cặp dùi kim loại gõ vào dây đàn. Ban đầu, những người du mục châu Á, đặc biệt là đoàn quân xâm lược từ Mông Cổ, Trung Quốc, những người Gypsy du cư từ Ấn Độ, đã mang nhạc cụ này đến nhiều nơi ở châu Âu và Trung Đông. Một trong những biến thể đầu tiên của kannun là đàn “psaltery”. Nhạc cụ này đã mai một trong lịch sử do có những biến thể khác phát triển hơn trong nhiều quốc gia ở châu Âu. Kích cỡ, hình dáng của những nhạc cụ biến thể cũng có nhiều thay đổi, cách chơi đa dạng hơn. Ở Hy Lạp, Thổ Nhĩ kỳ và Ba Tư (Iran ngày nay), người ta đã phát triển loại đàn biến thể gọi là “santur”, còn ở Nga là đàn “gusli”, ở Đức là “hackbertt”, ở Ý là “salterio”; ở Anh, Ireland và châu Mỹ gọi là "hammered dulcimer", còn ở Hungary và Romania gọi là “cimbalom”. Phần lớn những nhạc cụ này được chơi bằng một cặp que hoặc dùi. Đàn gusli và zither được chơi bằng cách gảy dây (ngón bật – pizzicato), khi chơi được đặt tựa vào vạt áo của người diễn. Nhạc cụ lớn nhất của hai loại đàn này là cimbalom (còn gọi là cymbalom, cembalom, cymbalium hay czimbalum). Nó là nhạc cụ quốc gia của Hungary, được dùng trong nhạc dân gian và cổ điển cũng thường xuyên như đàn piano. Cimbalom được ghi chép lần đầu tiên trong lịch sử Hungari là khoảng năm 720 sau Công nguyên. Trong thế kỷ 17 người ta đã biểu diễn loại đàn này cho Hoàng đế Ferdinand của nước Áo thưởng ngoạn. Đến thế kỷ 18 và 19, cimbalom cạnh tranh sự phổ biến với loại đàn harpsichord và clavichord ở Trung Âu. Năm 1980, nó chính thức được công nhận là nhạc cụ quốc gia của Hungary. Năm 1897, cimbalom được đưa vào chương trình giảng dạy của Học viện âm nhạc Budapest. Người ta có thể sử dụng cimbalom để chơi nhạc cổ điển, dân gian, đương đại và cả nhạc phim, nhạc Jazz, pop-rock…
Hiện nay trên thế giới có nhiều nước sử dụng cimbalom với dạng biến thể riêng, tên gọi khác nhau và cách chơi cũng khác nhau.

Cimbalom dàn nhạc

244
Cimbalom dàn nhạc có âm vực từ C đến e′′′ (do Vencel József Schunda chế tạo)

Cimbalom dàn nhạc phổ biến từ thời Đế chế Austro-Hungary (1867–1918) ở châu Âu (bao gồm những nước ngày nay gọi là Hungary, Romania, Moldova, Ukraine, Ba Lan, Cộng Hòa Czech và Slovakia..). József Schunda đã phát triển nhạc cụ này vào năm 1874 tại Budapest, Hungary. Cimbalom dàn nhạc có nhiều nguồn dây hơn loại hammered dulcimer thông thường, âm vực rộng hơn. Các dây hợp nhất trong một bàn đạp giảm âm. Bốn chân có thể tháo rời. Nhạc cụ này tiếp tục được chơi chủ yếu bằng que bên cạnh việc áp dụng những kỹ thuật khác.
In Romania, loại cimbalom lớn được gọi là “ţambal mare” (nghĩa đen cũng có nghĩa là “cimbalom lớn"). Loại này tiếp tục phát triển, còn loại dàn nhạc hiện đại thường được mở rộng hơn nữa và có nhiều ưu điểm hơn loại do Schunda thiết kế. Hiện nay loại hiện đại có âm vực rộng 5 quãng tám với những nốt nửa cung hoàn toàn (từ AA đến a′′′). Người ta còn sản xuất những cây cimbalom nhỏ hơn, có thể mang đi được.

245
Cimbalom dàn nhạc hiện đại của Kovács Balázs

Cimbalom thể nghiệm
Cimbalom thể nghiệm là những biến thể hiện đại của cimbalom, hình dáng của chúng có thể khá lạ so với loại cimbalom truyền thống. Nhà soạn nhạc, nghệ nhân làm đàn người Mỹ Harry Partch đã chế tạo những cây đàn zither gọi là Harmonic Canon (loại I và II). Nhà soạn nhạc, guitarist Mỹ Glenn Branca trình làng loại table zither điện, gõ bằng dùi đầu búa với tên gọi là Mallet Guitar, còn thợ làm đàn Hà Lan Yuri Landman sáng chế loại hammered zither điện, 24 dây cho nhạc sĩ Liam Finn và ban nhạc rock Mỹ The Dodos. Ông gọi nhạc cụ này là Tafelberg drum guitar. Ban nhạc rock Nhật Bản The Boredoms cũng có một thiết bị sử dụng như cimbalom.

246
Harmonic Canon I

247
Tafelberg

Phần lớn loại cimbalom thông thường có những nhóm dây chỉnh đồng âm. Song những nhạc cụ của Branca, Landman và ban Boredoms sử dụng một hệ thống chỉnh dây có những nhóm dây riêng, được chỉnh đồng âm trong những quãng tám chứ không phải kiểu đồng âm đơn giản (cùng cao độ). Đây là sự chuyển hướng từ cách chỉnh đồng âm của những nhóm dây tam và dây tứ trên loại cimbalom bình thường, ngoài ra còn từ cách chỉnh đồng âm của đàn piano bên trong những nhóm dây của nó. (Những nhạc cụ của Partch sử dụng cách chỉnh hoàn toàn khác và sắp xếp cùng chung một chất với nhau). Ban nhạc rock Mỹ Sonic Youth đã học cách chỉnh mới từ Branca và áp dụng nó trong guitar điện để tạo ra âm sắc nghe cũng rất là guitar!.

Vương Trung Hiếu giới thiệu