PDA

View Full Version : Tào Mạt


wanghy
14-06-2012, 09:01 AM
NHÀ VIẾT KỊCH TÀO MẠT


http://diendanamnhac.vn/attachment.php?attachmentid=50&d=1284976662 (http://diendanamnhac.vn/attachment.php?attachmentid=50&d=1284976662)


http://diendanamnhac.vn/attachment.php?attachmentid=48&d=1284976656 (http://diendanamnhac.vn/attachment.php?attachmentid=48&d=1284976656)


http://diendanamnhac.vn/attachment.php?attachmentid=49&d=1284976657 (http://diendanamnhac.vn/attachment.php?attachmentid=49&d=1284976657)


Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Duy Thục (Nguyễn Đăng Thục)
Sinh năm: 1930
Năm mất: 1993
Nơi sinh: Hữu Bằng - Thạch Thất - Hà Tây
Bút danh: Tào Mạt
Thể loại: Kịch, tiểu luận nghệ thuật
Các tác phẩm:


Cái ba lô (1958)
Chị Tâm bến Cốc (1960)
Trong phòng trực chiến (1965)
Đường về trận địa (1966)
Đỉnh cao phía trước (1967)
Nguyễn Viết Xuân (1970)
Bài ca giữ nước (1986)
Những lời tâm huyết (1993)
Thơ chữ Hán Tào Mạt (1994)

Giải thưởng văn chương:


Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (đợt 1- 1996)

Giới thiệu một tác phẩm:
Sông Trà Khúc

Cảnh trí
Cảnh ước lệ gồm một bản đồ thế giới màu xanh nhạt áp phía sau, một chiếc bục diễn giống như chiếc cầu làm mảnh xác máy bay Mỹ đặt ở phía trước từng cảnh có những hình ảnh tượng trưng gợi ý cho chủ đề của cảnh đó.
Trước khi mở màn hát bài "Vỡ nước"
Việt Nam bốn ngàn năm lịch sử
Từ vua Hùng đến Bác Hồ ta
Không gì quý hơn độc lập tự do
Hạnh phúc là phải hoà bình thống nhất
Phần một
(Tiếng mõ nổi, bài hát "Vỡ nước" vang lên)
Người xếp trò: (bước ra)
Một chiếc bút chì
Mười tờ giấy nháp
Một đôi dép lốp
Một chiếc gậy Trường Sơn
A nô phen - Bê năm hai - mưa rừng thác lũ không sờn
Át tiếng bom bằng tiếng hát
Các bạn đã biết tôi là ai chưa ạ?
Tôi là sự tưởng tượng sáng tạo của nhân dân.
Xưa tôi là anh hề áo ngắn
Ở trong chèo đã mấy trăm năm
Ngày xưa bọn phong kiến nhố nhăng
Chúng khinh con hát cùng người nấu bếp
Ơn Cách mạng cuộc đời đổi mới
Người nấu ăn thành đồng chí nuôi quân
Người làm trò thành nghệ sĩ nhân dân
Nghệ thuật, văn chương đều đứng trong mặt trận
Làm trò nhưng không phải là trò chơi
Đảng cho quyền tự do hát, tự do cười
Cốt ích nước, lợi dân là được
Như cánh đại bàng lượn trên đất nước
Là trên mặt bằng hay vút giữa từng không
Nghe suốt xưa nay, nhìn khắp tây đông
Hát cho hay và cười cho đắt.
Ai là hiền thánh, anh hùng thì hát ca cho hùng hồn réo rắt
Ai là kẻ gian tà, điêu bạc, tàn ác thì cười cho sắc, cho no
"Trò phản ảnh đời, nên đời quyết định trò
Không giống thật nhưng rút từ sự thật
Đất là đời, trò cốt nói chuyện đời."
Hôm nay tôi đứng trên đống xác máy bay Mỹ kể chuyện nhân dân ta đánh Mỹ
Dẫn trò cùng với tôi
Một cụ Nam Tào, một ông Thổ Địa
Cụ Nam Tào: (Một diễn viên hoá trang như Nam Tào trong truyền thuyết dân gian bước ra) - Theo truyền thuýêt dân gian, giữ sổ sinh của loài người, sống mãi muôn đời đại diện cho khái niệm thời gian
Ông Thổ Địa: (Một diễn viên đeo mặt nạ ông Thổ Địa, mặc áo đỏ) - Dân ta có thói quen nói: Đất Thổ Công, Sông Hà bá, ngoài biển cả gọi là Long Vương, miền Nam gọi là ông Đại diện cho khái niệm không gian.
Theo quan điểm của chúng ta, muốn hiểu sự vật gì phải đặt nó trong một thời gian, một không gian cụ thể.
Vở chèo này sẽ diễn theo lời kể
Giờ chúng tôi nổi trống làm trò
(Trống trò nổi lên)
Hồi thứ nhất uý nhiệm dẫn trò cho hai bạn đóng Nam Tào và Thổ Địa
(Người xếp trò đi vào)

Thổ Địa: - Tôi là Thổ Địa, tôi kể rằng:
Sông Trà Khúc chảy qua Quảng Ngãi
Xưa chàng nho sinh quảy gánh qua sông
Thương dân làng chạy lụt long đong
Mời cô bác ngồi lên đòn gánh
Người ngồi đông bước đi quá mạnh
Gánh gãy đôi bút ấn rớt ven bờ
Bút vươn mây, bút toả trời thơ
Ấm ướp đất cửa sông êm chặt
Đế: - Thế là núi Thiên Ấn, Thiên Bút rồi!
Nam Tào: - Trải chín năm dân ta đánh Pháp
Thắng Điện Biên Pháp phải rút lui về
Hạn hai năm hiệp nghị Giơne
Tổng tuyển cử nước nhà thống nhất
Thổ Địa: - Hồi ấy trên sông Trà Khúc
Có người vợ trẻ tên là Trúc
Được thư chồng
Hẹn trước khi tập kết sẽ về thăm
Đón đợi ngày, mỗi ngày dài bằng ba năm kia mà!
Thuyền ai lờ lững bên sông
Chiều chiều vẫn ngóng đợi chồng phải chăng?
(Hai ông già gõ nhịp đón Trúc. Đó là một người phụ nữ mặc áo bà ba, khăn rằn vắt vai, tay bơi chèo đi ra)
Trúc: - Hò ơi! Con sông Trà Khúc
Nước dù trong dù đục
Sóng khi dữ khi lành
Như con bởi mẹ cha sinh
Sướng ta ơn, khổ thì ta chịu, thương quê hương mình thì ta quý con sông.
Một dải xanh trong
Mắt nhìn thấu đáy
Đôi con cá lững lờ
Bống bống bang bang
Nhìn đôi cá bơi
Riêng lòng em khắc khoải
Anh hỡi anh! Giờ anh ở phương mô?
Xác giặc chất thành gò
Điện Biên ta thắng lợi
Đánh giặc chín năm, chẳng lâu bằng hai năm chờ đợi
Anh hỡi anh! Giờ anh đến nơi mô?
(Ngẩng đầu)
Trời đã xế rồi
Ba trăm ngày đã hết
Cánh chim bay đường mây mù mịt
Có phải anh đang lặn lội đường xa
Nhiệm vụ anh nước đặt trên nhà
Việc của em phải thương phải nhớ
Má Thạch: - Trúc ơi!
Có toán người áo vàng
Chúng vác cờ ba sọc
Chúng đi bộ từ lộ vào làng
Trúc: - Lính! Lính giặc rồi má à. Trời! Mai mới hết hạn tập kết mà bữa ni súng đã kéo về rồi.

Nơi xuất bản: NXB Sân khấu, 2002